Dự án Hỗ trợ hệ thống y tế do Quỹ Toàn cầu tài trợ (Giai đoạn 2012-2016) - Tóm tắt các kết quả chính
Dự án Hỗ trợ hệ thống y tế do Quỹ Toàn cầu tài trợ (Giai đoạn 2012-2016)
- Bộ Y tế và 15 tỉnh: Hà Nam, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên, Lai Châu, Điện Biên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Phước, Tây Ninh, Đồng Tháp, An Giang và Sóc Trăng.
- Trường Đại học Dược Hà Nội và các Đơn vị cảnh giác dược ở 63 tỉnh thành phố.
- Viện Kiểm nghiệm thuốc Trung ương, Viện Kiểm nghiệm thuốc Tp Hồ Chí Minh và 61 Trung tâm Kiểm nghiệm tỉnh/thành phố.
Bộ Y tế
Địa chỉ: 138A Giảng Võ, Hà Nội, Việt Nam
Điện thoại: 84-4-62732273; Fax: 84-4-62732217
- Ban Quản lý dự án, Bộ Y tế
Địa chỉ: Địa chỉ: 138A Giảng Võ, Hà Nội, Việt Nam
Điện thoại: 84-4-3231440; Fax: 84-4-38463056
- Viện Kiểm nghiệm thuốc trung ương
- Trường Đại học Dược Hà Nội
- Sở Y tế và BQLDA 15 tỉnh dự án
5 năm (từ 01/01/2012 đến 31/12/2016)
Tổng vốn dự án: 86.986.150 USD, trong đó:
-Vốn ODA (do Quỹ Toàn cầu tài trợ): 86.636.150 USD
-Vốn đối ứng: 7.153.000.000 VNĐ (tương đương 350.000 USD)
Tổng vốn dự án giai đoạn 1 (2012-2013): 39.913.575 USD
Tổng vốn dự án giai đoạn 2 (2014-2016): 24.753.825 USD
ODA không hoàn lại
1.Tăng cường hệ thống chăm sóc sức khỏe cơ bản thông qua tăng cường năng lực cho hệ thống y tế và nâng cấp cơ sở vật chất cho cơ sở y tế dự phòng tuyến huyện và xã.
2.Đảm bảo an toàn, hiệu quả và chất lượng thuốc ở Việt Nam thông qua qua việc thiết lập hệ thống cảnh giác Dược Quốc Gia.
3.Đảm bảo an toàn, hiệu quả và chất lượng thuốc ở Việt Nam thông qua tăng cường hệ thống quản lý chất lượng thuốc.
2. Hợp phần 2.1: Tăng cường các hoạt động cảnh giác dược.
1. Nâng cao năng lực thể chế và kiện toàn các văn bản pháp quy
2.Phát triển hệ thống báo cáo tự nguyện và phản hồi quốc gia
3.Phát triển chương trình theo dõi ADR trong các chương trình y tế mục tiêu Quốc Gia (Lao, Sốt Rét, HIV/AIDS)
2.2. Một số kết quả chính:
- Chỉ số tác động:
Năm 2012, kết quả nghiên cứu trên 16 bệnh viện trong toàn quốc cho thấy tỷ lệ DRP dẫn đến nhập viện ở Việt Nam là 3.4%.
Trong năm 2016, tỷ lệ này là 2,2%. Như vậy, sau giai đoạn 1 và 2 đã cho thấy tỷ lệ nhập viện do DRP có xu hướng giảm. Kết quả này đã đạt 118.5% so với kế hoạch đề ra.
- Chỉ số kết quả:
Năm 2012 cho thấy, một nghiên cứu trên 16 bệnh viện toàn quốc cho thấy tỷ lệ báo cáo được xử trí phù hợp đạt 23% - số báo cáo ADR được hoàn thiện đầy đủ chính xác thông tin
Tới năm 2014, tỷ lệ này là 33,2%. Như vậy so với chỉ tiêu đặt ra thì dự án đã hoàn thành 100%.
Năm 2016, tỷ lệ báo cáo được hoàn thiện đày đủ đạt 68,8%, hoàn thành 160% so với kế hoạch.
- Chỉ số đầu ra:
Trong năm 2016, Tổng số báo cáo ADR Trung tâm DI&ADR Quốc gia và Trung tâm DI&ADR khu vực TP Hồ Chí Minh đã tiếp nhận và xử lý tính đến ngày 15/11/2016 là 9.912 báo cáo (đạt 108,1 báo cáo/1 triệu dân). Trong đó, 8.562 báo cáo ADR được gửi từ các cơ sở khám, chữa bệnh và 1406 báo cáo ADR nghiêm trọng xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam từ các đơn vị sản xuất, kinh doanh dược phẩm (trong đó có 56 báo cáo trùng với báo cáo từ các cơ sở khám, chữa bệnh).. So với mục tiêu cam kết trong năm 2016 (85 báo cáo/1 triệu dân) thì dự án đã hoàn thành vượt chỉ tiêu, đạt 127,1% so với kế hoạch.
Số lượng phản hồi cho các cá nhân báo cáo là 5990 báo cáo, tương đương 60,4%. Nếu so với mục tiêu cam kết trong năm 2016 (phản hồi được 60% số báo cáo) thì dự án đã đạt chỉ tiêu cam kết, đạt 100,7 % so với kế hoạch.
Các chỉ số cam kết của dự án được thể hiện theo các biểu đồ sau:
Theo kết quả ở Hình 1, số lượng báo cáo năm 2016 đã tăng cao hơn gấp 3 lần so với cả năm 2012. Qua hơn 4 năm triển khai dự án (2012 - 2016) ta có thể thấy được tác động của dự án lên số lượng báo cáo ADR hàng năm. Từ năm 2003 tới năm 2011, số lượng báo cáo có tăng nhưng không đáng kể, và xu hướng tăng không rõ rệt. Tuy nhiên từ khi bắt đầu triển khai dự án, số lượng báo cáo đã có chuyển biến rõ rệt, tăng rất mạnh vào những năm đầu của dự án (2012 - 2014). Tới giai đoạn 2015 - 2016, số báo cáo có tăng, tuy nhiên tốc độ đã giảm nhiều so với những năm trước.
Hình 2 cho thấy số lượng báo cáo có tăng tăng với tốc độ chậm từ năm 2010 tới 2012, và mạnh từ năm 2012 - 2014. Giai đoạn 2014 - 2016, số báo cáo có tăng nhưng đã chậm lại, tuy nhiên tốc độ vẫn cao hơn so với giai đoạn 2010 - 2012. Đối với các tỉnh trong vùng dự án, tốc độ tăng gần giống với tốc độ của cả nước, tuy nhiên giai đoạn 2014 - 2016 gần như đi ngang, tăng không đáng kể. Nếu so sánh với các tỉnh ngoài dự án, các tỉnh trong dự án luôn giữ một khoảng cách rất xa.
Để có được kết quả này, dự án đã nhắm tới các biện pháp chủ chốt nhằm hỗ trợ cho các tỉnh/đơn vị trực thuộc dự án như:
1.Dự án đã hoàn thiện xong khung pháp lý liên quan tới cảnh giác Dược "Hướng dẫn Quốc gia về Cảnh giác Dược". Văn bản này đã góp phần củng cố hệ thống văn bản pháp lý cho hoạt động Cảnh giác Dược tại Việt Nam.
2.Đào tạo về cảnh giác Dược: trong thời gian qua, dự án đã thực hiện nhiều lớp tập huấn ở nhiều tỉnh/thành phố thuộc dự án. Nội dung các lớp tập huấn được xây dựng phù hợp với nhu cầu và trình độ của các cán bộ tỉnh. Các đại biểu sau khi được tập huấn đã có thêm nhiều kiến thức về cảnh giác Dược, trong đó có việc hiểu rõ tầm quan trọng của công tác báo cáo ADR, lợi ích từ việc báo cáo, cũng như phương pháp và kĩ năng báo cáo. Thêm vào đó, giáo trình về cảnh giác Dược và an toàn thuốc đã được hoàn thiện sẽ đóng góp vào việc đảm bảo chất lượng và đáp ứng được những yêu cầu để củng cố năng lực của cả khối quản lý, giảng dạy và thực hành trong ADR
3.Trung tâm Quốc gia về thông tin thuốc & theo dõi phản ứng có hại của thuốc (Trung tâm DI&ADR Quốc Gia) đã tích cực phản hồi cho các cá nhân báo cáo, trong đó có phản hồi khẩn, phản hồi kết quả thẩm định. Ngoài ra, các báo cáo tổng kết về ADR và bản tin cảnh giác Dược hàng quý là nguồn thông tin tham khảo hữu ích cho các đơn vị quản lý và điều trị trong cả nước.
4.Dự án đã tổ chức nhiều hội thảo về theo dõi và đánh giá để chia sẻ kinh nghiệm và cập nhật thông tin liên quan tới cảnh giác Dược. Thêm vào đó, tại hội thảo tổng kết công tác cảnh giác Dược cả nước, dự án cũng thực hiện việc khen thưởng các đơn vị có thành tích xuất sắc trong công tác báo cáo ADR, đồng thời khuyến khích/động viên/nhắc nhở những đơn vị yếu kém cần nỗ lực hơn để hoàn thành kế hoạch chung.
5.Dự án còn thực hiện nhiều chuyến giám sát hỗ trợ tới các tỉnh còn yếu kém trong công tác quản lý và giám sát báo cáo ADR. Trong chuyến giám sát, ngoài việc cập nhật tình hình triển khai các hoạt động dự án, nhóm giám sát còn thực hiện hỗ trợ kĩ thuật trong việc báo cáo ADR của các đơn vị. Từ đó giúp đơn vị thực hiện hiệu quả việc theo dõi, quản lý, giám sát và báo cáo các phản ứng có hại xảy ra tại đơn vị cũng như trên địa bản tỉnh.
6.Dự án đã triển khai có hiệu quả mạng lưới cán bộ đầu mối M&E tại các đơn vị, đồng thời phối hợp với hai trung tâm DI&ADR Quốc Gia và DI&ADR Khu vực & 3 chương trình y tế để triển khai các hoạt động thường quy cũng như các nghiên cứu chuyên sâu.
7.Ngoài ra, trong những kế hoạch đào tạo và giám sát trong những kì kế tiếp, dự án luôn dành nhiều nguồn lực để hỗ trợ cho những tỉnh/đơn vị gặp khó khăn trong thực hiện các hoạt động dự án, và có số lượng báo cáo thấp so với mặt bằng chung của cả nước hay của các tỉnh dự án.
Tóm lại, trong 5 năm dự án từ 2012 tới 2016, Ban quản lý hợp phần 2.1 "tăng cường các hoạt động cảnh giác Dược" đã đạt được rất nhiều thành tựu không chỉ ngắn hạn mà trong thời gian dài. Những chiến lược đã được thực hiện của dự án hiện đang đóng góp phần lớn cho những thành công của hệ thống cảnh giác Dược Việt Nam
06-02-2017